Huỳnh Bửu Khương, C/N 2010/12
Tương truyền, kinh này xuất phát từ chùa
Thiếu Lâm (Tàu), là công phu do Đạt Ma Sư Tổ truyền dạy nhằm giúp chư
tăng có đủ sức khoẻ để tu tập giáo pháp.
Dịch Cân Kinh giúp chuyển đổi gân cốt và cơ bắp từ suy nhược thành sung mãn.
Ngày nay, phép chữa bệnh theo Dịch Cân Kinh được gọi là Phất Thủ Liệu
Pháp. Đây là phương pháp khí công chữa bệnh bằng cách lắc tay đơn
giản, dễ nhớ, dễ tập và có hiệu quả cao đối với nhiều bệnh mạn tính
khác nhau, từ suy nhược thần kinh, hen suyễn đến bệnh tiêu hoá, tim
mạch, sinh dục ...
Tìm nơi thoáng mát, không khí trong lành. Mặc quần áo rộng rãi. Đứng
thẳng, hai chân dang ra song song ngang vai, các ngón chân bám chặt vào
mặt đất, hậu môn nhíu lại, bụng dưới hơi thót, ngực hơi thu vào, vai
xuôi tự nhiên, hai mắt khép hờ, đầu lưỡi chạm nướu răng trên, tâm ý
hướng về Đan Điền (dưới rốn khoảng 3 phân).
Hai cánh tay, bàn tay và các ngón tay duỗi thẳng tự nhiên. Hai cánh
tay hơi cong ở khuỷu. Đưa hai cánh tay về phía trước, đồng thời hít vào.
Dùng lực vẫy hai cánh tay ra phía sau đến hết tầm và thở ra. Khi hết
tầm tay ra phía sau, hai cánh tay theo đà của lực quán tính trở về phía
trước, đồng thời với hít vào. Sau đó lại tiếp tục vẫy tay ra phía sau.
Một lần hít vào, một lần thở ra là một cái lắc tay. Làm liên tục nhiều
cái. Tối thiểu 500 cái một lần tập. Mỗi ngày có thể tập hai lần. Nếu để
chữa bệnh thì mỗi lần tập phải thực hành từ 1500 cái trở lên.
Động tác lắc tay phải bền bỉ, đều đặn, nhẹ nhàng, linh hoạt. Không
cần dùng sức mạnh để cố vẫy tay ra phía sau mà chỉ dùng sức bình thường,
tương ứng với nhịp thở điều hoà của cơ thể. Việc nhíu hậu môn và bám
các đầu ngón chân xuống đất cũng vậy. Chỉ cần dùng sức vừa phải nhằm bảo
đãm tâm lý thoải mái và thể lực dẻo dai để có thể thực hành đến hàng
ngàn cái mỗi lần tập.
Động tác đưa tay về trước là do phản lực quán tính từ phía sau tạo
nên. Tuyệt đối không dùng sức. Tầm tay phía trước không vượt quá thắt
lưng. Trong suốt quá trình lắc tay, mặc dù cánh tay di động trước sau,
nhưng phải luôn duy trì tình trạng thoải mái tự nhiên, cánh tay không
gồng sức.
Những người bệnh hoặc có tật ở chân không đứng được vẫn có thể thực
hành hiệu quả Phất Thủ Liệu Pháp bằng cách ngồi trên đất hoặc trên ván,
vẫy tay ở vị thế cánh tay co lại khoảng 90 độ.
Cơ chế tác động của Phất Thủ Liệu Pháp !
Động tác hít thở phối hợp với lắc tay điều hoà và liên tục tác động
vào các cơ ngực và thành bụng, nhất là cơ hoành, giúp xoa bóp các nội
tạng, thúc đẩy sự vận hành khí huyết và tăng cường chức năng của các cơ
quan. Nó cũng có tác dụng khai thông những bế tắc, ứ trệ trong kinh
mạch hoặc tạng phủ. Những người tiêu hoá đình trệ sau khi thực hành
khoảng 500-700 cái sẽ có trung tiện hoặc ợ hơi, có cảm giác dễ chịu rất
rõ. Phất Thủ Liệu Pháp là phương pháp đơn giản nhất để chữa bệnh đau
dạ dày hoặc rối loạn tiêu hoá.
Những trường hợp khí nghẽn, khí bế, khí uất do stress, bệnh tật hoặc
do tập khí công sai lệch cũng có thể làm cho thông bằng Phất Thủ Liệu
Pháp.
Theo quan điểm của y học truyền thống và khí công cổ đại, con người
và vũ trụ có quan hệ giao hoà thông qua hô hấp. Hai nhà bác học người
Pháp Jacqueline Chantereine và Camille Savoire cũng kết luận : Lực vũ
trụ nhập vào con người ở đầu và xuất ra nơi bàn chân phải, âm lực của
quả đất nhập vào con người nơi chân trái để lên đến đỉnh đầu ở phía sau
ót. Những động tác của Phất Thủ Liệu Pháp tuy đơn giản nhưng đã trực
tiếp phát huy quy luật này đối với việc chữa bệnh và tăng cường nội khí.
Ở phía trên, động tác hít thở và lắc tay kích hoạt huyệt Bách hội ở
đỉnh đầu và Đại chuỳ ở giữa hai bả vai để thu thiên khí, khai thông và
tăng cường hoạt động của các đường kinh Dương. Bách Hội và Đại Chuỳ đều
là những điểm giao hội của các đường Kinh Dương và Mạch Đốc.
Ở phía dưới, việc nhíu hậu môn và bám các đầu ngón chân xuống mặt đất
kích thích hai huyệt Trường cường và Hội âm ở hai bên hậu môn và tĩnh
huyệt của các đường kinh âm. Quan trọng nhất là huyệt Dũng tuyền ở giữa
lòng bàn chân và Ẩn bạch ở đầu ngoài móng ngón chân cái. Động tác này
có tác dụng hấp thu địa khí, khai thông và tăng cường hoạt động của các
Âm kinh.
Theo học thuyết Kinh Lạc, Dương phải thường giáng và Âm phải thường
thăng. Vì lắc tay liên tục đến hàng ngàn cái nên khi các đường kinh
Dương được khai thông và đi dần xuống Dương giáng) điểm cuối ở đầu ngón
chân, chúng sẽ tự động kích hoạt những tĩnh huyệt của kinh Âm, khiến
các đường kinh này chạy ngược trở lên (Âm thăng). Đối với các đường
kinh Âm cũng vậy, khi chạy đến điểm cuối ở phía trên, nó sẽ lại kích
hoạt các đường kinh Dương đi trở xuống và cứ thế tiếp tục luân chuyển
tuần hoàn trong cơ thể. Đây chính là một biểu hiện của quy luật Cực
Dương sinh Âm và Cực Âm sinh Dương.
Phất Thủ Liệu Pháp có tác dụng cân bằng Âm Dương, thuận khí, giáng hư
hoả. Theo y học cổ truyền, khí Dương thường thừa mà khí Âm thường
thiếu. Âm hư có thể do bẩm sinh, hay quá căng thẳng, lo âu trong cuộc
sống. Sự mất cân bằng đó là đầu mối của nhiều bệnh tật mà Đông y gọi
chung là chứng Âm hư Hoả vượng (hay sốt về chiều, mờ mắt, mắt đỏ, khô
cổ, ù tai, đau lưng, hay lở miệng, hay ho, suyễn, viêm họng, viêm xoang
mạn).
Phất Thủ Liệu Pháp có thể chữa các chứng này bằng cách kích thích các
đường kinh Âm để sinh Âm, bồi bổ Âm khí. Chính tư thế của liệu pháp
cũng bảo đãm nguyên tắc thượng hư hạ thực (như thư giãn phần vai, cứng
chắc phần hạ bộ, nhíu hậu môn, bám các đầu ngón chân ...) - biện pháp
điều trị hữu hiệu với những chứng hư hoả. Nguyên tắc này đòi hỏi người
tập luôn giữ cho phần trên của cơ thể được thư giãn về hình, hư linh về
ý. Ngược lại, phần dưới phải đầy đặn, cứng chắc nhằm đưa trung tâm lực
của cơ thể dồn xuống.
Phất Thủ Liệu Pháp cũng giúp điều hoà thần kinh giao cảm. Khoa học
hiện đại cho biết trên 50 % bệnh tật của con người là do những cảm xúc
Âm tính gây ra. Chính tâm lý căng thẳng do tình chí uất ức hoặc nhịp
sống quá nhanh trong một thời gian dài dễ làm thần kinh quá tải, suy
nhược và rối loạn. Sự rối loạn này làm cơ thể mệt nhọc, ăn ngủ kém ngon,
giảm sức đề kháng, dễ sinh bệnh tật hoặc làm trầm trọng thêm những
chứng bệnh đã có.
Nếu tập trung tư tưởng vào nhịp lắc tay, người tập sẽ mất đi những
cảm xúc khó chịu thường ngày. Đó là nguyên tắc dùng một niệm để chế vạn
niệm.
Theo học thuyết Paplov, khi ta gây hưng phấn ở một điểm và một vùng
nhỏ thì những phần còn lại của vỏ não sẽ rơi vào trạng thái ức chế, nghỉ
ngơi. Áp dụng những nguyên tắc này, việc tập trung vào lắc tay sẽ điều
hoà được thần kinh giao cảm, phục hồi tính tự điều chỉnh, tự hoàn
thiện vốn có của hê. thần kinh trung ương.
Tập Phất Thủ Liệu Pháp có gây phản ứng nguy hiểm gì không ?
Phất Thủ Liệu Pháp có tác dụng kích thích, xúc tiến để cơ thể tự khai
thông, tự chỉnh lý ? nó không vận khí, không cưỡng cầu nên hiếm khi
xảy ra sai lệch. Trong quá trình tập, người tập có thể đau, tức, ngứa
ngáy, co giật do việc khai mở một số huyệt vị trên đường kinh hoặc công
phá một tổ chức bệnh trước khi những chỗ bế tắc này bị thải trừ hết.
Thông thường, những phản ứng trên sẽ tự chấm dứt sau một vài ngày.
Do không rơi vào nhập tĩnh nên khó xảy ra trường hợp người tập bị ảo
giác làm rối loạn tâm lý. Phất Thủ Liệu Pháp tác động kích thích đồng
thời các huyệt bách hội, hội Âm và trường cường. Do đó, bách hội và hội
Âm tạo ra những van an toàn để trung hoà với chân hoả phát sinh từ
trường cường, khó xảy ra trường hợp chênh lệch thái quá giữa Âm và Dương
nên không gây nguy hiểm cho người tập.
Phất Thủ Liệu Pháp tuân thủ nguyên tắc thượng hư hạ thực và tâm ý
quán chiếu Đan điền, khiến năng lượng của cơ thể không chạy lên đầu gây
tổn thương cho não, không xảy ra những chứng trạng mà người ta thường
gọi là tẩu hoả nhập ma.
Việc đầu lưỡi chạm nướu răng trên và nhíu hậu môn làm nối liền hai
mạch Nhâm, Đốc, tạo ra sự thông nhau giữa hai bể khí Âm và Dương. Sự
tương thông này giúp nội khí tuần hoàn trong thân người, điều hoà Âm
Dương và sinh lực giữa lục phủ ngũ tạng.
Kinh Nghiệm luyện tập Đạt Ma Dịch Cân Kinh
Tập Dịch Cân Kinh giúp mình luôn luôn ngủ ngon và không bao giờ bị
táo bón, máu huyết được lưu thông mạnh trong thời gian tập, nhờ đó da dẻ
chúng ta luôn được hồng hào và bệnh tật tan biến đi.
Sau đây tôi xin nói về cách tập thế nào cho đúng. Khi chúng tôi mới
có cuốn Đạt Ma Dịch Cân Kinh, chúng tôi coi theo hình vẽ trong đó mà tập
theo. Sau lối hai tuần tập luyện, chúng tôi thấy không có kết quả gì
cả. Do đó chúng tôi phải nhờ người dịch cuốn sách ấy, và khi tập đúng
cách rồi thì kết quả thấy rất rõ.
Tôi xin diễn tả tư thế và việc phải làm của một người tập Dịch Cân Kinh !
1. Người tập Dịch Cân Kinh nên đi giầy hay dép, không nên đi chân đất,
Hai chân dang ra, khoảng cách giữa hai ngói chân cái bằng khoảng cách của hai vai, hai bàn chân bám chặt xuống giầy hay dép
2. Gồng cứng bắp chuối và bắp vế chân, hậu môn nhíu lại và thót lên.
Suốt buổi tập hai chân như trồng cây xuống đất, từ thắt lưng trở xuống luôn luôn cứng nhắc, không suy suyển ?
Tóm lại đó là thế đứng tấn của người luyện võ. Nếu đã dang hai chân
đúng tầm, đã gồng (lên gân) hai chân thật chắc, bám mười ngón chân thật
chặt xuống dép hoặc giầy, nhíu hậu môn lại và thót lên rồi thì ta thấy
từ thắt lưng trở xuống chân thật là chắc nịch.
Và trong suốt buổi tập ta phải luôn chú ý đến phần từ thắt lưng trở xuống và làm đúng như thế.
Nếu ta không chú ý đến phần này thì công phu luyện tập sẽ mất gần hết, không mang lại kết quả mong muốn.
3. Đầu như dây treo (giống như có sợi dây treo mình
lên vậy) để cổ được thẳng, mặt ngó về phía trước, nhìn một điểm cao hơn
mình một tí để cổ không rùng xuống.
4. Ở miệng, hai môi chạm nhẹ vào nhau, không mím môi
cũng không hở môi. Hai hàm răng chạm nhẹ vào nhau (đầu chót luỡi chạm
nướu răng trên để luồng điện được lưu thông)
5. Ở mỗi bàn tay, các ngón luôn dính vào nhau (chớ
không phải xòe ra, sách có vẽ hình rất rõ về điểm này). Khi đánh tay,
lòng bàn tay hướng về phía sau (tức là mu bàn tay đưa ra phía trước).
Động tác duy nhất là đánh hai tay từ phía trước ra phía sau. Khi đưa hai
tay ra phía trước, hai cánh tay sẽ hợp với thân người thành một góc 30
độ. Khi đánh tay ra phía sau, một góc 60 độ.
Tóm lại khi đánh tay ra phía sau, đánh hết tay. Khi đưa hai tay ra
phía trước chỉ là một cái trớn của việc đánh tay ra phía sau còn lại mà
thôi, do đó chỉ có 30 độ.
Mỗi lần đánh tay từ phía trước ra phía sau thì kể một cái đánh tay.
Khi mới bắt đầu tập, nên khởi sự đánh tay 200 cái mỗi lần tập. Nếu muốn
mau có kết quả thì tập mỗi ngày hai lần, sáng và chiều. Còn nếu có ý
chí lớn hơn nửa thì tập ba lần mỗi ngày (sáng, trưa, chiều) càng tốt.
Tập ở ngoài sân hay ở trong nhà đều được miển là thoáng khí và yên tĩnh.
Không nên tập sau khi ăn cơm no. Khi thấy mệt là nghỉ ngay, không nên
tập quá sức, và khi còn có thể tập nữa mà không mệt thì nên tiếp tục
tập cho đúng sức mình.
Khi mới tập, khởi sự bằng 200 cái đánh tay mỗi lần tập, về sau khi
thấy còn có thể tập thêm thì tăng lên dần, thí dụ 250, 300, 350 ... Hồi
tôi mới tập một thời gian ngắn sau là tôi lên đến 1200 cái đánh tay cho
mỗi lần tập (trong 15 phút). Hồi đó còn trẻ nên tôi đánh rất nhanh, và
mỗi ngày tôi chỉ tập một lần. Sau khi tập xong ta thấy khát nước (nên
uống nước ngay), đó là tập vừa sức. Sau khi tập tôi thường đi chậm bằng
cách giở chân lên cao, vừa co giản hai cánh tay.
Có người mới khởi sự đã tập trên 1000 cái thì mặt bị nổi mụt ngay.
Nếu tập đúng cách tôi thấy không có bị phản ứng gì cả mà càng ngày ta
càng thấy khoẻ ra. Mình tập đuợc nhiều hay ít là do mình có thể đứng tấn
được bao lâu, chứ không phải ai muốn tập bao nhiêu lần cũng được. Còn
nếu đánh tay để đếm số lần cho được nhiều mà không gồng (lên gân) hai
chân cho thật cứng chắc và nhíu hậu môn lại, thót lên thì sẽ không đạt
được kết quả mong muốn.
Về tốc độ đánh tay thì sách nói đánh tay nhanh như người đi đánh đồng
xa. Đánh tay càng nhanh thì máu huyết lưu thông càng mạnh trong thời
gian ấy, và sẽ cuốn theo mọi bệnh tật.
Sách nói muốn tập trị bệnh thì nên tập từ 2000 - 3000 cái mỗi ngày trong vòng lối 30 phút.
Và sau đây là hai nguyên tắc quan trọng cần phải áp dụng trong lúc tập !
1) Thượng Tam Hạ Thất !
Nếu trong thời gian tập mình dùng 10 phần sức lực thì từ thắt lưng
trở xuống mình dùng đúng 7 phần và phải luôn luôn chú ý đến việc gồng
cứng (lên gân) hai chân, nhíu hậu môn lại và thót lên.
Từ thắt lưng trở lên, mình dùng 3 phần sức lực.
Đó gọi là thượng tam hạ thất, là thượng hư hạ thực, trên ba dưới bảy, hay trên hư dưới thực.
Trong việc đánh tay cũng thế. Khi đưa tay ra phía sau dùng 7 phần sức lực, đưa ra trước thì chỉ dùng 3 phần.
Trước ba sau bảy, hay trước hư sau thực, đánh tay ra phía sau mới là thực cần thiết, và phải đánh cho hết tay.
2) Tâm bình khí tịnh !
Trong suốt thời gian tập ta không được suy nghĩ điều gì (điều này hơi
khó) ngoại trừ việc nhẩm đếm số lần đánh tay. Đó là tâm bình. Còn khí
tịnh là trong thời gian tập ta thở bình thường, chứ không phải thở theo
nhịp tay.
Có một môn phái thở theo nhịp tay, nghe nói đó là phái Võ Đang. Nhưng phái Thiếu Lâm Tự thì không thở theo nhịp tay.
Hồi tôi ở Hoàng Liên Sơn, tôi tập không thở theo nhịp tay, thầy Thuần thở theo nhịp tay, cả hai chúng tôi đều đạt kết quả tốt.
Sau cùng tôi xin nói một vài kinh nghiệm trong khi tập !
Nếu đánh tay nhanh mà ta thấy tê mười đầu ngón tay thì đó là vì ta
không nhíu hậu môn và thót lên, hoặc là vì ta để hở mười ngón tay (bàn
tay năm ngón phải để dính với nhau, không được hở, điều này trong sách
có vẽ hình rõ lắm).
Nếu lúc tập mà ta thấy đầu hơi nặng là vì cổ ta không thẳng, đầu
không như dây treo, luồng điện thay vì đi xuống lại đi nguợc lên đầu.
Hồi ở Hoàng Liên Sơn, tối nào tôi cũng ra sân tập và đeo bao tay vi`
trời lạnh. Khi đánh tay được lối 1500 cái trở lên là tôi thấy ấm người,
khỏi mang bao tay nữa, và mỗi cái đánh tay nghe như có hai luồng điện
chạy xuống hai chân vậy.
Bây giờ đã lớn tuổi, tôi chỉ tập nổi tối đa là trên dưới 800 cái đánh
tay mỗi lần mà thôi. Thêm vào đó, ngày nào tôi cũng đi bộ ít nhứt nữa
giờ và tôi thấy rất tốt cho sức khoẻ, rất tốt cho việc tập Dịch Cân
Kinh. Trong tất cả các môn tôi đã tập (hồi ở VN tôi tập dưỡng sinh trong
vườn Tao Đàn), tôi nhận thấy môn Dịch Cân Kinh của Đạt Ma Tổ Sư là hữu
hiệu hơn cả. Nhưng điều cần yếu là phải tin tưởng và kiên nhẫn tập đều
đặn thì mới có kết quả.
Huỳnh Bửu Khương, C/N 2010/12