Ung thư phổi
hay xẩy ra và có tỉ lệ tử vong cao. Ước tính trong năm 2008 trên thế
giới có 1.600.000 người bị ung thư phổi và 1.380.000 người chết, ở Hoa
kỳ trong năm 2012 có 226.000 người bị ung thư phổi và 160.000 người
chết. Tuy khó trị và có tỉ lệ tử vong cao nhưng ung thư phổi có thể ngừa
được.
Chừng 90% các trường hợp ung thư phổi do hút thuốc
lá, 10% còn lại do phóng xạ, hóa chất, xơ phổi và đột biến di truyền.
Nguy cơ bị ung thư tăng với số lượng và thời gian hút nên thường xẩy ra ở
vào khoảng 60 tuổi, sau 40 năm hút một bao mỗi ngày.
Ung thư phổi không gây triệu chứng chuyên biệt nên khó
phát hiện. Một số người có triệu chứng đường hô hấp như ho, khó thở,
hoặc khan tiếng. Nhiều người ho nhưng cho là bị cảm cúm hay dị ứng nên
bỏ qua. Một ít người có thể ho ra máu khiến cho họ lo sợ và đi khám bệnh
tuy rằng ho ra máu cũng có thể vì viêm phế quản. Có người bị khan tiếng
do ung thư xâm lấn vào dây thần kinh thanh âm vậy người hút thuốc lá bị
khan tiếng cần đi khám để loại trừ ung thư thanh quản hay ung thư phổi.
Có người bị đau ngực vì buớu xâm lấn, đè vào các bộ phận kế cận. Khi
buớu đè vào phế quản, làm tắc nghẽn phế quản làm cho khó thở hoặc thở
khò khè; bướu có thể lan vào màng phổi làm tràn dịch màng phổi cũng làm
cho khó thở. Bướu làm tắc nghẽn phế quản là điều kiện để bị nhiễm trùng
nghĩa là sưng phổi cho nên sau khi chữa hết nhiễm trùng ở người lớn tuổi
cần tìm và loại bỏ u bướu làm cho bị nhiễm trùng. Khi ung thư phát
triển thêm có thể đè vào các bộ phận xa hơn như đè vào tĩnh mạch trên
tim làm sưng phù ở mặt hoặc đè vào chùm dây thần kinh phát xuất từ cổ
làm đau và tê tay.
Ung thư có thể di căn nghĩa là một số tế bào ung thư
theo đường máu di chuyển đến các bộ phận ở xa như di căn đến xương làm
đau nhức xương hay di căn đến não làm nhức đầu nôn mửa và tê liệt.
Trong một số trường hợp tế bào ung thư tiết ra những
nội tiết tố gây ra những triệu chứng toàn thân như làm cho lượng calcium
trong máu tăng khiến cho bệnh nhân bị ói mửa táo bón và hôn mê hoặc làm
cho lượng muối trong máu giảm khiến cho bệnh nhân bị mệt mỏi, thay đổi
tính tình, co giật và hôn mê...Cũng có trường hợp ung thư là điều kiện
sinh ra các kháng thể gây triệu chứng trên hệ thần kinh do cơ chế miễn
dịch gọi là tự miễn. Ung thư phổi cũng có thể gây triệu chứng ở trong
máu, ở xương khớp và cơ bắp.
Sau khi hỏi bệnh và thăm khám, bác sĩ sẽ làm các xét
nghiệm như chụp X quang phổi, chụp CT hoặc MRI để xác định khối u. Mục
đích của thăm khám là xác định ung thư, phân loại ung thư, đánh giá sự
phát triển của ung thư để cân nhắc kế hoạch điều trị.
Chẩn đoán xác định ung thư dựa vào lấy mẫu khối u để
xét nghiệm trên kính hiển vi, gọi là xét nghiệm cơ thể hay xét nghiệm
mô. Có thể lấy mẫu bằng nội soi phế quản hoặc chích kim qua lồng ngực
dưới sự hướng dẫn của CT. Xét nghiệm cơ thể học cho biết loại tế bào ung
thư của bệnh nhân vì có nhiều loại tế bào gây ung thư khác nhau mà sự
tiến triển và dự hậu khác nhau. Bước kế tiếp là đánh giá sự tiến triển
của ung thư, tìm di căn đến các bộ phận khác.
Sự điều trị tùy từng trường hợp nhưng nói chung
thường kết hợp giải phẫu, điều trị bằng tia phóng xạ và hóa chất. Đã có
nhiều tiến bộ về kỹ thuật làm cho sự điều trị đạt kết quả tốt hơn so với
trước. Song song với điều trị nhằm loại bỏ và hạn chế sự tiến triển của
ung thư còn cần điều trị triệu chứng để giảm bớt đau đớn và các sự khó
chịu của bệnh nhân.
Dự hậu tùy thuộc vào loại ung thư và mức độ tiến
triển của bệnh. Những người có ung thư khu trú được phát hiện sớm có thể
sống trung bình từ 15 đến 20 tháng, khả năng sống 5 năm từ 10 đến 13%,
ngược lại những người mà ung thư đã phát triển có thể sống trung bình từ
8 đến 13 tháng và tỉ lệ sống 5 năm khoảng 1-2%.
Ung thư phổi thường được phát hiện trễ nên khó trị
nhưng chưa có cách tầm soát nào được coi là hữu hiệu để truy tìm ung thư
phổi. Một nghiên cứu truy tìm ung thư phổi bằng cách chụp CT phổi với
liều quang tuyến thấp ở những người trên 50 tuổi đã hút thuốc lá trên 30
năm giảm tử vong 20% và không tốn kém hơn so với chi phí để truy tìm
ung thư vú, cổ tử cung và đại tràng.
Cách ngừa ung thư phổi tốt nhất là bỏ hoặc không hút
thuốc lá. Ở Hoa kỳ đã có những biện pháp mạnh mẽ để hạn chế hút thuốc
lá, như hạn chế quảng cáo, tăng thuế, không cho hút thuốc lá ở nơi công
cộng. Tỉ lệ hút thuốc lá chung ở Hoa kỳ đã giảm xuống 19.3%. Ước tính
trong 25 năm qua các biện pháp ngăn ngừa hút thuốc lá đã làm cho 795.000
người khỏi bị chết vì các bệnh do thuốc lá gây ra. Ở Việt nam đàn bà ít
hút thuốc lá nhưng 49% đàn ông hút, gấp hai lần rưỡi tỉ lệ hút thuốc
của đàn ông Hoa kỳ. Mới chỉ có một ít biện pháp ngăn cản hút thuốc lá
được áp dụng ở Việt nam . Một số đàn ông Việt nam sang Hoa kỳ đã bỏ hút
thuốc lá do đó một số người đã sống lâu hơn.
Những người đã hút mà bỏ được vẫn có lợi. Sau 20 phút
không hút thuốc huyết áp trở lại bình thường, sau 8 giờ, nồng độ carbon
monoxide trong máu giảm xuống một nửa, nồng độ dưỡng khí trong máu trở
lại bình thường, sau 2 ngày nguy cơ bị đau tim bắt đầu giảm, chất
nicotine không còn trong máu, vị giác và khứu giác tức là khả năng nếm
và ngửi trở lại bình thường, sau 3 ngày phế quản giãn nở, người đã hút
thuốc lấy lại được sức lực, sau 2 tuần hệ thống tuần hoàn làm việc tốt
hơn và tiếp tục cải thiện, sau 3-9 tháng các triệu chứng ho, khò khè bắt
đầu giảm, sau 1 năm nguy cơ bị đau tim giảm một nửa, sau 5 năm nguy cơ
bị tai biến mạch máu não giảm xuống như người không hút, sau 10 năm nguy
cơ bị ung thư phổi giảm xuống như người không hút, sau 15 năm nguy cơ
đau tim giảm xuống như người không hút. Vậy bỏ thuốc có lợi và bỏ càng
sớm càng tốt. Hút thuốc lá không những gây bệnh tim mạch, ung thư phổi
mà còn gây bệnh nghẹt phổi làm cho người hút khó thở. Thuốc lá còn góp
phần gây nhiều loại ung thư khác như ung thư môi, lưỡi, vòm hầu, thực
quản, thận, bàng quang, và cổ tử cung.
Người đã hút khó bỏ thuốc vì nicotine là một chất gây
nghiện, giống như ma túy, tác động vào não bộ làm cho người hút sảng
khoái và thèm thuốc, cần phải tìm thuốc khi thiếu thuốc, thậm chí nhịn
ăn để đổi lấy thuốc, nghĩa là sống tùy thuộc vào thuốc. Trẻ em dễ bị
nghiện hơn người lớn, những người hút thuốc lá trước 20 tuổi dễ bị
nghiện hơn người lớn tuổi hơn do đó kỹ thuật quảng cáo của các hãng
thuốc nhằm vào trẻ em.
Bỏ thuốc tiến triển qua từng giai đoạn. Trước nhất
người hút thuốc phải nhận thức được rằng hút thuốc có hại, bỏ thuốc là
cần thiết, đi đến quyết định bỏ thuốc và tìm cách bỏ. Ý chí là yếu tố
quyết định. Người hút cần cho mọi người biết quyết định của mình, vứt bỏ
thuốc lá, bật lửa, gạt tàn thuốc; thân nhân và bạn bè cần hỗ trợ cho
người muốn bỏ thuốc. Nhiều người muốn bỏ thuốc nhưng đang ở trong tình
trạng lưỡng lự, đối với những người này, thân nhân cần hiểu biết, không
nên chỉ trích mà cần giúp đỡ, tạo điếu kiện cho họ bỏ thuốc bởi vì nếu
cứ chỉ trích sẽ đẩy họ về phía đối nghịch. Có người đã bỏ thuốc rồi lại
hút lại, nhưng những người này không nên coi đó là một sự thất bại mà
nên coi đó là kinh nghiệm cho những lần bỏ sau.
Có một số phương tiện giúp bỏ thuốc. Trước nhất là
các thuốc như cao dán hoặc kẹo cao su có chứa nicotine. Cách làm là cung
cấp cho người hút một lượng nicotine với nồng độ giảm dần để người hút
quen với lượng nicotine mỗi ngày một ít hơn để dần dần không hút nữa.
Cách này chỉ có hiệu quả chừng 5%. Sau này người ta thấy wellbutrin là
một thuốc chữa trầm cảm nhưng lại tác dụng trên một bộ phận trong não
bộ, làm cho người uống mất cảm giác thèm thuốc nên đã được dùng để bỏ
thuốc tỏ ra có hiệu quả chừng 36%. Gần đây chantix là một loại thuốc
chuyên biệt giúp bỏ thuốc có kết quả tốt hơn. Các thuốc đều có một ít
tác dụng phụ nên những người muốn bỏ hút cần hỏi ý kiến bác sĩ gia đình
của mình.
"Thuốc lá không có khói" còn gọi là "thuốc lá điện
tử" có vẻ hấp dẫn là những phương tiện đưa chất nicotine vào trong cơ
thể; người hút cảm thấy sảng khoái vì tác dụng của nicotine nhưng không
phải hít khói thuốc lá. Thuốc lá không có khói tránh được tác dụng bất
lợi của khói thuốc nhưng vẫn bị tác dụng của nicotine là chất gây nghiện
và có tác dụng bất lợi về tim mạch. Các phân tích cũng cho thấy rằng
một nửa trong số 19 nhãn thuốc lá không có khói chứa nitrosamine, một
chất gây ung thư và một số có chứa diethylen glycol, một chất độc dùng
chống đông lạnh. Ở Hoa kỳ luật lệ về "thuốc lá không có khói" thay đổi
theo từng tiểu bang; cơ quan quản trị thuốc và thực phẩm FDA chưa chấp
thuận cho dùng "thuốc lá không khói" hay "thuốc lá điện tử " vì lo ngại
rằng việc quảng cáo "thuốc lá điện tử" có vẻ hấp dẫn sẽ làm cho nhiều
trẻ em bị nghiện.
Tóm lại ung thư phổi là một bệnh đáng sợ mà hút thuốc
lá là nguyên nhân chính. Không ai nên hút thuốc lá kể cả thuốc lá không
có khói. Không ai nên bỏ tiền ra mua lấy bệnh để làm giầu cho người
khác!
http://www.machsong.org/modules.php?name=News&file=article&sid=2432
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire