1. Ăn không thấy ngon:
Nhịn đói ba ngày, chỉ dùng nước rất ít, sau đó ăn cháo gạo lứt rang vài ngày, ăn theo
cách số 6, 5, 4.
2. Ăn không tiêu:
Ăn theo cách số 6 hoặc 7. Nhai thật kĩ với muối vừng, làm việc nhẹ trong nhà mỗi ngày
vài ba giờ.
3. Suy nhược thần kinh:
Ăn theo cách số 7 với muối vừng (mè), nhai thật kĩ, uống nước đủ nhu cầu tối thiểu.
4. Nhức đầu, nhức nửa đầu:
Ăn theo cách số 7 hoặc cách số 6 với một ít muối vừng vài ngày là khỏi. Mỗi đêm,
trước khi đi ngủ ngâm chân trong nước nóng ấm 15 phút.
5. Mất ngủ:
Thường là một bệnh nan y đối với phương pháp chữa hiện đại ở đây, cần phải ăn theo
cách số 7 một cách tuyệt đối và kiên trì, nhai thật kĩ, uống nước ít nhất là vào buổi chiều, tối.
Sau một thời gian, sẽ đạt kết quả. Trước khi đi ngủ ăn một thìa muối vừng.
6. Mệt nhọc:
Uống một tách nước chè già (nếu có chè 3 năm thì rất tốt) với một thìa muối vừng.
7. Lo sợ, hoảng loạn:
Ăn theo cách số 7 với muối vừng trong một thời gian, tinh thần sẽ bình tĩnh và trở nên
yêu đời.
8. Táo bón:
Nguyên nhân thường vì ăn uống nhiều thức ăn có âm tính như đường, cà... Cần phải
giảm ăn thức ăn có âm tính cao. Đồng thời ăn theo cách số 7 trong vài ba ngày mà không thấy
bột, thì bệnh đã trầm trọng, ruột đã bị thương tổn. Vậy cần kiên nhẫn ăn theo cách số 7 để ruột
nhuận trở lại và bình phục, đừng dùng thêm thuốc gì khác, nhất định bệnh sẽ lành trở lại.
9. Đầy hơi:
Ăn theo cách số 7 với nhiều muối vừng sẽ rất tốt.
10. Ruột đầy hơi:
Ăn theo cách số 7 hoặc 5 với muối vừng độ vài tuần, uống nước đậu đỏ rang.
11. Xơ cứng động mạch:
Ăn theo cách số 7, 6, 5 với muối vừng; hoặc ăn cháo gạo lứt đặc biệt với muối.
12. Bệnh tim:
Ăn theo cách số 7, 6, 5 hoặc ăn cháo gạo lứt với muối vừng (cháo gạo lứt đặc biệt).
Nếu kiên trì ăn uống đúng quân bình âm - dương, bệnh sẽ mau lành.
13. Tim đập chậm:
Người dương tạng mà tim đập chậm thì không có gì đáng ngại. Nhưng với người âm
tạng là triệu chứng bất thường. Phải ăn thật kĩ theo cách số 7 với chút ít muối vừng. Trước đó,
nên bắt đầu bằng cách ăn cháo gạo lứt rang trong một hai tuần với 10gr ô-mai (ướp muối) lâu
năm mỗi ngày.
14. Tim đập không đều, tim đập nhanh:
Ăn theo cách số 7 với muối vừng, hoặc ăn theo cách số 6, 5.
15. Đau tim:
Ăn theo cách số 7 với muối vừng, uống nước càng ít càng tốt. Nếu bệnh nặng, chỉ
trong ba ngày, mỗi ngày ăn thêm một quả trứng gà sống với muối (trứng gà phải có trống mới
đẻ). Ăn một thìa muối vừng trước khi đi ngủ.
16. Tim bị nhói:
Theo cách chữa của thuyết âm dương, là chọn thức ăn nhiều dương tính, như ăn theo
cách số 7 với muối vừng. Uống thật ít nước. Nhai thật kĩ và tuyệt đối không được ăn gì khác
ngoài các bữa ăn.
Nên ăn một thìa đầy muối vừng trước khi đi ngủ.
Ăn cháo gạo lứt đặc biệt thay cơm cũng rất tốt.
Ở ngoài đắp nước gừng nóng và dán cao khoai sọ mỗi ngày bốn lần.
17. Huyết áp cao, huyết áp thấp:
Cách trị: ăn theo cách số 7 với muối vừng. Tây y rất kiêng muối vì sợ huyết áp lên cao.
Nhưng ăn theo thuật trường sinh và ít uống nước thì muối lại làm cho huyết áp cao phải hạ
xuống và huyết áp thấp phải tăng lên vừa độ trung bình của người có âm dương quân bình và
cơ thể vô bệnh.
18. Thận dư:
Phải ăn theo cách số 7 với rất ít muối vừng. Dùng lá cây hoàng bì (Wampi, Cookia,
Punctata) thứ cây này có quả giống như quả sầu đông (quả xoan), vỏ the cơm ngọt hoặc chua,
sao khử thổ, sắc uống thay nước chè.
19. Viêm bàng quang:
Ăn theo cách số 7 với muối vừng hoặc tương. Uống càng ít càng tốt. Ở ngoài đắp
gừng và dán cao khoai sọ. Người mệt thì ăn cháo gạo lứt rang và uống nước đậu đỏ.
20. Đái đường:
Bệnh này cũng do ăn nhiều loại thức ăn âm. Cần ăn theo cách số 1 với 10gr bí đỏ nấu
với 50gr đậu huyết (đậu đỏ). Bí đỏ, đậu huyết chứa rất nhiều chất hyroxyt cacbon hoặc glucô
mà Tây y thường kiêng kị. Nhưng thực ra gạo lứt, bí đỏ và đậu huyết có thể chữa rất công hiệu
bệnh này.
21. Di tinh:
Ăn theo cách số 7 với muối vừng. Buổi sáng nấu cháo gạo lứt, đợi hơi nguội vớt váng
dẻo nóng trên mặt nồi cháo ăn với muối. Dùng nhị sen và cây trinh nữ sắc chung, uống thay
nước chè.
22. Liệt dương:
Phải ăn theo cách số 7 trong một tháng, sau đó ăn theo cách số 6 rồi số 5.
23. Liệt âm:
Phụ nữ bị bệnh liệt âm, tính nết trở nên thất thường, khó tính, nếu bị kéo dài sẽ dẫn
đến bệnh thần kinh trầm trọng. Cách trị: ăn theo cách số 7 một cách kiên trì trong vài tuần, sau
đó ăn theo cách số 6, 5, 4, 3.
24. Ho, ho lao, ho gà, suyễn:
Ăn theo cách số 7 với muối vừng. Buổi sáng điểm tâm với một nắm gạo rang nhai thật
kĩ hoặc cà phê gạo lứt, sữa thảo mộc.
Hầm 20 hạt sen (cả vỏ cứng) cho mềm, nhai nhỏ mà ăn và uống với nước sen đó lúc
còn nóng. Hoặc dùng củ sen sao vàng sắc chung với vài lát gừng, bỏ thêm tí muối vào uống.
Nếu đau tức, thì đắp nước gừng nóng và dán cao khoai sọ, bất kì loại ho gì cũng có thể ngừng
lại trong vài ngày, phải hạn chế uống nước.
Nếu trẻ sơ sinh ho gà, người mẹ phải ăn cho đúng quân bình âm dương, và mỗi ngày
uống ba lần nước sen nói trên để cho con bú. Bú được thứ sữa trên độ một giờ là trẻ hết ho.
Khi thai nghén, cũng như thời kì cho con bú, người mẹ không nên dùng thuốc loại có
thuốc phiện, vì sẽ ảnh hưởng tới thần kinh của trẻ sau này.
25. Loét dạ dày:
Ăn theo cách số 7 với muối vừng, hoặc theo cách số 6, 5 với ít rau bắp cải, cà rốt,
hành tây xào thật chín. Nhai kĩ, uống nước ít. Dùng bồ công anh, cam thảo hoặc cây trinh nữ
(xấu hổ) sao vàng nấu nước uống thay nước chè.
26. Đau tị tạng.
Ăn theo cách số 7 với muối vừng nhai thật kĩ, nhai một trăm lần với một miếng cơm,
uống ít nước.
27. Phong thấp:
Chỉ ăn gạo lứt rang hoặc cháo gạo rang với muối vừng, uống càng ngày càng ít nước:
Nếu muốn thì đắp nước gừng nóng và dán cao khoai sọ ở chỗ nhức mỏi. Nên ăn các món như
hành, củ sen xào khi tình trạng khả quan.
28. Sưng khớp xương:
Chứng này rất dễ chữa. Ăn theo cách số 7 và đắp nước gừng nóng.
29. Tê phù:
Ăn theo cách số 7 với muối vừng, uống nước ít. Độ ba bốn ngày là khỏi.
30. Chống béo phì:
Ăn theo cách số 7 với 30gr đến 80gr củ cải, với một ít muối vừng trong một hoặc hai
tháng.
http://www.bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/4388-4388-633858540615625000/Bao-ve-suc-khoe-nguoi-cao-tuoi/An-de-chua-benh-theo-phuong-phap-Ohsawa-Nhat-Ban.htm
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire